Ngày 16 tháng 03 năm 2020, Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định 345/QĐ-BTC về việc phê duyệt đề án áp dụng Chuẩn mực báo cáo tài chính (“FRS”) tại Việt Nam.
Mục tiêu của đề án là: (1) Xây dựng phương án, lộ trình và công bố, hỗ trợ áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (International Financial Reporting Standards – “IFRS”) tại Việt Nam cho từng nhóm đối tượng cụ thể được xác định, phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm mục đích nâng cao tính minh bạch, trung thực của báo cáo tài chính, nâng cao trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp đối với người sử dụng báo cáo tài chính; và (ii) Ban hành mới và tổ chức thực hiện hệ thống chuẩn mực báo cáo tài chính Việt Nam (VFRS) theo nguyên tắc tiếp thu tối đa thông lệ quốc tế, phù hợp với đặc thù của nền kinh tế Việt Nam và nhu cầu của doanh nghiệp, đảm bảo tính khả thi trong quá trình thực hiện.
Kế hoạch áp dụng IFRS:
- Giai đoạn 2019 – 2021: Giai đoạn chuẩn bị;
- Giai đoạn 2022 – 2025: Giai đoạn tự nguyện cho các doanh nghiệp có nhu cầu, đủ điều kiện;
- Giai đoạn sau 2025: Giai đoạn bắt buộc cho một số doanh nghiệp cụ thể.
Đối với các doanh nghiệp vừa, nhỏ không thuộc các đối tượng cụ thể bắt buộc áp dụng IFRS, các doanh nghiệp này sẽ áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính Việt Nam mới (VFRS) có điều chỉnh phù hợp với IFRS và thông lệ quốc tế. Riêng đối tượng doanh nghiệp siêu nhỏ không có nhu cầu và điều kiện áp dụng IFRS và VFRS sẽ có hướng dẫn riêng của Bộ Tài chính.
Ảnh hưởng của Đề án đến các doanh nghiệp tại Việt Nam:
IFRS đã trở thành ngôn ngữ kế toán chung phổ biến nhất trên toàn cầu. Kết quả thống kê của IFRS.org chỉ ra rằng đến tháng 4/2018 có 144 quốc gia và vùng lãnh thổ (87%) trong 166 quốc gia và vùng lãnh thổ được khảo sát đã bắt buộc sử dụng chuẩn mực IFRS. Phần lớn trong nhóm 22 quốc gia và vùng lãnh thổ còn lại đã cho phép hoặc đang trong lộ trình triển khai áp dụng IFRS. Chỉ còn 7 quốc gia trong đó có Việt Nam vẫn chỉ sử dụng chuẩn mực kế toán riêng[1].
Việc áp dụng IFRS tại Việt Nam có thể đem lại nhiều tác động tích cực, đồng thời đem lại cho các doanh nghiệp Việt Nam nhiều cơ hội để hội nhập với thế giới. Các tác động lớn nhất có thể kể đến bao gồm: giảm chi phí huy động vốn, tăng cường năng lực quản trị nội bộ và nâng cao tính minh bạch của doanh nghiệp, cụ thể:
- Theo quan sát của PwC trên phạm vi toàn cầu cho thấy, các doanh nghiệp đều nhận thấy chi phí huy động vốn giảm khi áp dụng các tiêu chuẩn IFRS. Các tiêu chuẩn IFRS đem lại cho các công ty “tấm hộ chiếu” để thâm nhập vào nhiều thị trường vốn trên thế giới, bao gồm cả châu Âu và Hoa Kỳ. Khi một công ty áp dụng các tiêu chuẩn IFRS tức là công ty đó công khai cam kết các tiêu chuẩn cao nhất về thông tin tài chính và bảo vệ nhà đầu tư. Doanh nghiệp có nhu cầu cao về vốn, đặc biệt là từ vốn đầu tư nước ngoài sẽ thấy rõ tác động này sau khi chuyển đổi.
- Các chuẩn mực IFRS đòi hỏi sự gắn kết chặt chẽ các quy trình quản trị nội bộ với các thông tin tài chính được lập. Các thông tin tài chính IFRS sẽ có tác động phản biện lại về tính hiệu quả của các quy trình quản trị nội bộ, tạo ra các thay đổi tích cực.
- Với việc cập nhật các chuẩn mực về giá trị hợp lý và coi trọng bản chất hơn hình thức, nhiều tài sản hoặc hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ được đánh giá lại một cách thường xuyên bằng các mô hình định giá khác nhau để đảm bảo số liệu thể hiện trên báo cáo tài chính phù hợp với khả năng sinh lời của các tài sản này, thay vì sử dụng phương pháp ghi nhận theo giá gốc như Chuẩn mực Kế toán Việt Nam.
Việc chuyển đổi Tiêu chuẩn kế toán Việt Nam sang VFRS cho thấy nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong việc giảm thiểu sự khác biệt về kế toán giữa Việt Nam và các quốc gia/vùng lãnh thổ áp dụng VFRS. Nhờ đó, các doanh nghiệp Việt Nam có thể nâng cao tính minh bạch và hiệu quả các thông tin tài chính cũng như việc hòa nhập với khuôn khổ báo cáo tài chính quốc tế.
Bên cạnh những tác động tích cực, việc triển khai IFRS ở Việt Nam hiện nay cũng sẽ gặp không ít những thách thức, có thể kể đến như:
- Nguồn nhân lực: Thực tế nguồn nhân lực sẵn sàng để triển khai IFRS còn khá hạn chế tại Việt Nam. Các cơ sở đào tạo (các trường đại học, Hiệp hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) và các đơn vị đào tạo trong nước) tại Việt Nam hiện chưa có chươn g trình đào tạo về IFRS một cách hệ thống. Hiện mới chỉ có một số các tổ chức nghề nghiệp quốc tế như Hiệp hội Kế toán Anh quốc (ACCA), Hiệp hội Kế toán công chứng Australia (CPA Australia), Viện Kế toán Công chứng Anh và xứ Wales (ICAEW) có chương trình đào tạo IFRS cho một số ít học viên.
- Quy trình nội bộ: Các quy trình nội bộ hiện tại có thể không còn phù hợp và cần được điều chỉnh, do triển khai IFRS yêu cầu sự gắn kết chặt chẽ giữa các bộ phận hoạt động với thông tin tài chính. Một sơ đồ tổ chức hiệu quả, lược bỏ sự cồng kềnh, chú trọng tăng năng suất hiệu quả sẽ là bước đi mà doanh nghiệp cần thực hiện.
- Khác biệt cơ bản giữa VAS và IFRS: Nguyên nhân chính khiến các doanh nghiệp không sẵn sàng áp dụng IFRS là do những điểm khác biệt cơ bản giữa VAS và chuẩn mực kế toán quốc tế IFRS. Ví dụ, kế toán VAS dựa trên nguyên tắc giá gốc, trong khi đó IFRS dựa trên nguyên tắc giá trị hợp lý. Mặc dù xác định giá trị hợp lý không phải điều dễ dàng trong một số trường hợp, đặc biệt là trong bối cảnh thị trường Việt Nam, khái niệm giá trị hợp lý đang được ủng hộ rộng rãi. Ghi nhận dựa trên cơ sở giá gốc sẽ không đem lại cái nhìn đúng đắn về tình hình tài chính của doanh nghiệp, đặc biệt là đối với danh mục tài sản, phần mà giá trị hợp lý thay đổi theo thời gian, chẳng hạn như nhà đất, trang thiết bị,…[2]
- Hệ thống thông tin tài chính: Việc áp dụng IFRS đòi hỏi sự tiên tiến trong hệ thống công nghệ thông tin, nhằm hỗ trợ quá trình thu thập, xử lý thông tin cũng như kết nối mọi hoạt động từ tất cả các phòng ban trong nội bộ cũng như bên ngoài doanh nghiệp. Hệ thống thông tin tài chính hiện tại có thể không cung cấp đủ các thông tin cần thiết để tính toán khác biệt, dẫn đến ý kiến kiểm toán có thể bị ngoại trừ. Khái niệm ERP – Hoạch định nguồn lực doanh nghiệp đã không còn quá xa lạ đối với hầu hết doanh nghiệp ở Việt Nam, tuy nhiên, để triển khai tích hợp IFRS thực sự là một thách thức rất lớn.
[1] Website PwC Việt Nam, “So sánh các khác biệt chính giữa Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế IFRS và Chuẩn mực kế toán Việt Nam”, https://www.pwc.com/vn/vn/publications/vietnam-publications/ifrs-vas.html
[2] Ths.NCS Đường Thị Quỳnh Liên, Khó khăn, thách thức khi áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế IFRS tại Việt Nam và lộ trình thực hiện (http://ifrsvietnam.vn/tin-tuc/nghien-cuu-trao-doi-72/kho-khan-thach-thuc-khi-ap-dung-chuan-muc-bao-cao-tai-chinh-quoc-te-ifrs-tai-viet-nam-va-lo-trinh-thuc-hien-212.html)