VẤN ĐỀ CHIA CỔ TỨC VÀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA CỔ ĐÔNG NHỎ TRONG VIỆC NHẬN CỔ TỨC TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN

I. DẪN NHẬP

Mỗi khi đến mùa Đại hội cổ đông (“ĐHCĐ”), vấn đề chia cổ tức trong công ty cổ phần (“CTCP”) lại trở trở thành đề tài nóng hổi tại nhiều công ty. Thậm chí, tại không ít ĐHCĐ, vấn đề chia cổ tức còn là chủ đề gây ra nhiều tranh cãi, bức xúc cho các cổ đông đã đầu tư vào công ty trong suốt nhiều năm mà không được hưởng lợi tức xứng đáng từ khoản đầu tư của họ, dù công ty có lợi nhuận cao.

Theo quy định tại Luật Doanh nghiệp các thời kỳ, “Cổ tức” được hiểu là khoản tiền hoặc tài sản khác mà mỗi cổ đông nhận được từ công ty dưới dạng một phần lợi nhuận thu được từ công ty mà họ đã đầu tư hoặc góp vốn thành lập. Luật Doanh nghiệp 2020 đã định nghĩa cổ tức là “khoản lợi nhuận ròng được trả cho mỗi cổ phần bằng tiền mặt hoặc bằng tài sản khác.” Hiểu theo Bộ Luật Dân sự thì Cổ tức chính là “Lợi tức” mà người sở hữu cổ phần được hưởng trên cơ sở khai thác tài sản là số Cổ phần mà họ đã đầu tư.

Do đó, có thể hiểu rằng cổ tức là một phạm trù con của khái niệm lợi tức. Cả hai đều phản ánh việc chia sẻ lợi nhuận tạo ra từ việc khai thác tài sản hoặc hoạt động kinh doanh. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc thu hút sự quan tâm và ủng hộ từ các cổ đông cho CTCP, đồng thời thể hiện hiệu suất và kết quả kinh doanh của công ty. Để làm rõ thêm, lợi tức thực chất đại diện cho phần hưởng lợi mà mỗi chủ sở hữu chung theo phần thu được từ việc sở hữu tài sản chung. Khái niệm này có mối liên kết trực tiếp với tài sản cụ thể và quyền sở hữu của từng chủ sở hữu chung. Chính vì vậy, lợi tức có thể được xem là một phần không thể tách rời khỏi tài sản của những người chủ sở hữu chung theo phần.

Tuy nhiên, vấn đề chia cổ tức cũng có thể gây ra nhiều xung đột xuất phát từ cơ sở hàn lâm trong việc chia tài sản chung theo phần. Đặc biệt khi các cổ đông lớn (“CĐL”) sử dụng các thủ thuật để chèn ép nhằm không chia cổ tức cho các cổ đông nhỏ (“CĐN”). Những CĐL thường sở hữu nhiều cổ phiếu có quyền biểu quyết trong công ty và từ vị thế này, họ có thể kiểm soát quyết định về việc chia cổ tức. Thay vì chia sẻ lợi nhuận công bằng và minh bạch, họ có thể áp đặt quyết định không chia cổ tức hoặc chỉ chia một phần nhỏ trong số lợi nhuận mà CTCP thu được. Điều này gây ra không chỉ sự bất mãn mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển bền vững của công ty. Ngoài ra, những hành vi này có thể gây ra những tranh chấp phức tạp giữa các bên liên quan. Trong phạm vi bài viết này, tác giả sẽ tập trung bàn về vấn đề chia cổ tức trong CTCP và bảo vệ quyền của CĐN trong việc nhận cổ tức, đặc biệt là trong trường hợp của các công ty đại chúng.

II. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TRẢ CỔ TỨC

Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2020, Hội đồng quản trị (“HĐQT”) có quyền kiến nghị mức cổ tức được trả. Tuy nhiên, quyền quyết định mức cổ tức hằng năm của từng loại cổ phần thuộc về ĐHĐCĐ do đây là thực thể quản trị có quyền quyết định cao nhất của CTCP (điểm b khoản 2 Điều 138).

1. Điều kiện trả cổ tức

Theo quy định của khoản 2 Điều 135 Luật Doanh nghiệp 2020, việc trả cổ tức cho cổ phần phổ thông được xác định căn cứ vào số lợi nhuận ròng đã thực hiện và khoản chi trả cổ tức được trích từ nguồn lợi nhuận giữ lại của công ty. Công ty cổ phần chỉ được trả cổ tức của cổ phần phổ thông khi có đủ các điều kiện sau đây:

  • Công ty đã hoàn thành nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật;
  • Đã trích lập các quỹ công ty và bù đắp lỗ trước đó theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty;
  • Ngay sau khi trả hết số cổ tức, công ty vẫn bảo đảm thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác đến hạn.

2. Quy trình trả cổ tức

Theo quy định tại khoản 4 Điều 135 Luật Doanh nghiệp 2020, quy trình công ty chi trả cổ tức cho cổ đông như sau:

  • Hội đồng quản trị kiến nghị mức cổ tức được trả; quyết định thời hạn và thủ tục trả cổ tức;
  • Đại hội đồng cổ đông tiến hành cuộc họp thường niên; để xem xét phương án trả cổ tức, quyết định mức cổ tức đối với mỗi cổ phần của từng loại;
  • Sau khi ấn định thời gian trả cổ tức; Hội đồng quản trị lập danh sách cổ đông được nhận cổ tức, xác định mức cổ tức được trả đối với từng cổ phần, thời hạn và hình thức trả chậm nhất là 30 ngày trước mỗi lần trả cổ tức; 
  • Gửi thông báo về việc trả cổ tức tới các cổ đông. Thông báo về trả cổ tức được gửi bằng phương thức để bảo đảm đến cổ đông theo địa chỉ đăng ký trong sổ đăng ký cổ đông chậm nhất là 15 ngày trước khi thực hiện trả cổ tức; 
  • Tiến hành việc chia cổ tức của công ty cổ phần theo thời hạn được thông báo.

III. THỰC TRẠNG

Trước khi chuyển mình thành công ty đại chúng, các CTCP thường được sáng lập và quản trị bởi các CĐL là cá nhân hoặc tổ chức – những người sở hữu và hiểu rõ định hướng phát triển của doanh nghiệp. Trong quá trình phát triển, với nhu cầu vốn ngày một tăng cao và khát vọng mở rộng quy mô kinh doanh nhanh chóng, nhiều doanh nghiệp quyết định đưa mình lên sàn giao dịch chứng khoán. Hành động này không chỉ mang lại nguồn vốn cần thiết để đẩy mạnh sự phát triển, mà còn mở ra cơ hội tham gia của những cổ đông mới cho công ty.

Tuy nhiên, với lịch sử ban đầu khi các CĐL chính là những cổ đông sáng lập và quản trị doanh nghiệp, họ thường áp đặt quan điểm rằng quyền lực và quyết định của họ có sức ảnh hưởng tối đa. Hiện tượng này ít nhiều phản ánh ý chí về lợi ích cá nhân, tuy nhiên không phải lúc nào nó cũng hoàn toàn là tiêu cực nếu các quyết định đó tuân theo pháp luật và đảm bảo sự minh bạch.

Khi một doanh nghiệp đạt được lợi nhuận đáng kể, việc chia cổ tức thông qua các hình thức như trả tiền mặt có thể dẫn đến tình trạng làm giảm giá trị tài sản của doanh nghiệp. Ví dụ, việc quyết định trả trả cổ tức sẽ yêu cầu công ty chi ra một phần tài sản sau khi đã hoàn thành các nghĩa vụ thuế với Nhà nước và sau khi được ĐHĐCĐ phê duyệt. Mặc dù phương án này mang lại thu nhập trực tiếp cho các cổ đông, nhưng nó có thể ảnh hưởng đến tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp. Điều này thường xảy ra bởi vì phần lợi nhuận hoặc tài sản được trích lập để trả cổ tức đã bị loại bỏ khỏi tổng tài sản của công ty. Do đó, giá trị tài sản còn lại có thể giảm đi sau khi chia cổ tức.

Từ góc độ của các CĐL, họ thường có khuynh hướng ưa thích việc tái đầu tư lợi nhuận để làm tăng giá trị của doanh nghiệp. Có thể hiểu đơn giản về khuynh hướng này rằng khi giá trị của doanh nghiệp tăng lên thì cũng đồng nghịa với việc giá trị tài sản của các CĐL cũng tăng lên. Quan điểm này được xem như là một cách cải thiện khả năng sinh lời và gia tăng tài sản, trước khi họ quyết định phân phối lợi nhuận trực tiếp đến các cổ đông.

Tuy nhiên, trong bối cảnh thị trường chứng khoán khó khăn và lợi nhuận từ việc mua bán cổ phiếu giảm sút, cổ tức trở thành điểm sáng và hy vọng duy nhất cho nhà đầu tư để bù đắp phần nào những thiệt hại đã chịu trên thị trường. Đặc biệt, các cổ đông của các doanh nghiệp báo lãi lớn hoặc ngân hàng thường đặt nhiều kỳ vọng vào việc nhận cổ tức, coi đó như một khoản tiền lời xứng đáng với số tiền đầu tư của họ.

Trong thực tế, không ít doanh nghiệp khiến cổ đông thất vọng và hụt hẫng khi rời ĐHCĐ. Nguyên nhân chính đằng sau điều này là các CĐL thường chiếm đa số trong HĐQT của CTCP và các quyết định của họ luôn chiếm ưu thế hơn so với các CĐN. Thêm vào đó, việc các CĐN không được tham gia hoặc không nắm bắt thông tin quan trọng, từ đó CĐL dễ dàng kiểm soát các quyết định và ưu tiên lợi ích của mình mà không cân nhắc đến quyền lợi của CĐN. Một số doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp có lãi ròng lớn, thậm chí còn sử dụng các thủ thuật không minh bạch để tránh việc chia cổ tức cho CĐN, đây là vấn đề phổ biến và đáng quan ngại.

Một trong những nguyên nhân dẫn đến việc không chia cổ tức cho các cổ đông là do tình hình kinh doanh của doanh nghiệp có thể không thuận lợi hoặc theo sự chỉ đạo của Cơ quan Nhà nước đối với ngành đặc thù như Ngân hàng. Trong môi trường kinh tế khó khăn, các doanh nghiệp có thể đối mặt với nhiều khó khăn, gặp rủi ro trong hoạt động kinh doanh, và phải chi trả nhiều khoản chi phí. Trong tình hình này, việc chia cổ tức có thể tạo áp lực lên nguồn vốn và ảnh hưởng đến khả năng tái đầu tư và phát triển của doanh nghiệp. Ví dụ như Tập đoàn Khải Hoàn Land (mã chứng khoán: KHG) đã quyết định không trả cổ tức năm 2022 dù công ty ghi nhận lãi 442 tỷ đồng trong năm trước. Là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bất động sản và đảm nhận cả vai trò nhà phát triển dự án và môi giới bất động sản, Khải Hoàn Land chắc chắn hiểu rõ về tình hình và biến động của thị trường. Dựa trên nguồn lợi nhuận thặng dư đạt 632 tỷ đồng, HĐQT KHG đã quyết định không chia cổ tức và không phát hành cổ phiếu thưởng cho cổ đông. Quyết định này nhằm đảm bảo hoạt động kinh doanh của công ty được duy trì và hoạt động thông suốt trong bối cảnh thị trường bất động sản đang đối diện với nguy cơ suy thoái cao.

Ngoài ra, một số doanh nghiệp có thể lựa chọn không chia cổ tức để tăng cường vốn chủ sở hữu và nâng cao khả năng mở rộng đầu tư vào các dự án mới hoặc tập trung vào việc tái đầu tư vào hoạt động kinh doanh chính, điển hình như trường hợp của Tập đoàn Hòa Phát (mã chứng khoán: HPG): ông Trần Đình Long – Chủ tịch tập đoàn Hòa Phát chia sẻ tại cuộc họp ĐHĐCĐ thường niên năm 2022, HPG đã quyết định không chia cổ tức trong năm 2022 dù lợi nhuận đạt con số ấn tượng là 8.444 tỷ đồng. Nguyên nhân đằng sau quyết định này là Hòa Phát muốn tập trung tài nguyên và vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh đặc biệt là để triển khai dự án Khu liên hợp sản xuất gang thép Hòa Phát Dung Quất giai đoạn 2. Tại cuộc họp thường niên năm 2023, ông Trần Đình Long, Chủ tịch HĐQT Hòa Phát, đã chia sẻ rằng nhu cầu vốn trong năm 2023 của tập đoàn rất lớn, tổng đầu tư cho giai đoạn 2 của Dung Quất đã lên đến 75.000 tỷ đồng, tương đương khoảng 3,26 tỷ USD. Ông Long đã nhấn mạnh rằng dự án này có quy mô lớn, tương đương 1.000 dự án vừa và nhỏ, và tạo ra ảnh hưởng lớn hơn cả 100 dự án lớn khác. Hòa Phát không nhận được hỗ trợ từ các tập đoàn nước ngoài, vì vậy, để triển khai dự án này, công ty cần rất nhiều vốn. Việc trả cổ tức bằng tiền mặt trong tình hình này được coi là không hợp lý, và tập trung nguồn lực để đảm bảo hoàn thành dự án quan trọng này là điều cần thiết.

Bên cạnh những doanh nghiệp có mục tiêu, định hướng phát triển công ty một cách minh bạch và vì lợi ích chung của công ty như vậy thì đáng lên án tại một số doanh nghiệp, ví dụ như trường hợp bất bình của các cổ đông Công ty Cổ phần A hoạt động trong lĩnh vực logistic, ông Trần Văn B đại diện theo ủy quyền của Nhóm cổ đông nhỏ, đã nhiều lần lần kiến nghị tại các cuộc họp ĐHĐCĐ về nội dung, phương hướng, kế hoạch kinh doanh của HĐQT, Tổng Giám đốc không phù hợp với sự phát triển của Công ty, không phù hợp với lợi ích chung của toàn bộ cổ đông trong Công ty và yêu cầu khắc phục, sửa đổi để hạn chế các xung đột lợi ích trong Công ty. Điển hình là vấn đề chia cổ tức cho các cổ đông không được triển khai qua nhiều năm dù Công ty đủ điều kiện tiến hành chia cổ tức theo quy định pháp luật, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của các cổ đông. Tại Tờ trình về việc phân phối lợi nhuận năm 2022, Chủ tịch HĐQT Công ty tiếp tục kiến nghị giữ lại toàn bộ lợi nhuận sau thuế năm 2021. Phần lợi nhuận đó lại được nhóm CĐL đang nắm giữ các chức danh quản lý chủ chốt trong Công ty chuyển sang một số doanh nghiệp do nhóm này có sức ảnh hưởng thông qua qua giao dịch cho vay nêu trên, gây thiệt hại về doanh thu cho Công ty và đưa lợi ích sang cho các công ty liên kết đó. Những kiến nghị của ông B cho tới nay chưa bao giờ được giải quyết thỏa đáng, và nhóm CĐL nắm giữ chức danh quản lý doanh nghiệp vẫn tiếp tục lợi dụng quyền biểu quyết của CĐL để không tôn trọng lợi ích tối cao của doanh nghiệp và gây thiệt hại nghiêm trọng, lâu dài cho các cổ đông khác.

Trong tình huống của Công ty A, sự thao túng thông tin và hành vi che giấu liên quan đến “hệ thống chân rết” bởi phía các CĐL tạo ra một tình huống đáng xem xét. Sự bất tuân trong việc kê khai và báo cáo thông tin liên quan đến các cá nhân và tổ chức có liên quan tới các CĐL này theo quy định của pháp luật. Đây là nền tảng cho việc họ lợi dụng vị trí và quyền hạn của mình để tiến hành các giao dịch với mục đích trục lợi. Hành động này không chỉ có tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp tổng thể mà còn tác động tới quyền lợi của cổ đông khác.

Hành vi tạo điều kiện cho việc thực hiện các giao dịch với các công ty liên quan để luân chuyển phần lợi nhuận này có thể dẫn đến tình trạng giảm lợi nhuận trong công ty chính và từ đó ảnh hưởng đến khả năng trả cổ tức cho các cổ đông. Dù các giao dịch này có thể về mặt cơ bản mang lại lợi ích tạm thời cho doanh nghiệp, song đồng thời nó còn tạo ra sự hoang mang và thất vọng từ phía các CĐN khi họ không thể hưởng cổ tức.

Một khía cạnh khác cần xem xét là việc một số CĐL lợi dụng điểm mở của Luật Doanh nghiệp để tạo ra sự ảnh hưởng tại tỷ lệ biểu quyết trong các cuộc họp ĐHĐCĐ. Điều này thể hiện khi luật chỉ định tỷ lệ biểu quyết thông qua nghị quyết ĐHĐCĐ ngoại trừ các nội dung quy định tại khoản 1, 3, 4, 6 Điều 148 của Luật Doanh nghiệp chỉ là được số cổ đông sở hữu trên 50% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông tham dự và biểu quyết tại cuộc họp tán thành (khoản 2 Điều 148 Luật Doanh nghiệp 2020). Như vậy, nếu Điều lệ của Công ty quy định tỷ lệ thông qua các nghị quyết ĐHĐCĐ này là trên 50% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông tham dự và biểu quyết tại cuộc họp tán thành theo đúng mức tối thiểu của luật thì nhóm CĐL sở hữu hơn 50% cổ phiếu có quyền biểu quyết có thể nắm giữ sự kiểm soát gần như tuyệt đối trong quyết định của ĐHĐCĐ. Việc quy định như vậy tuy vẫn tuân thủ đúng pháp luật nhưng nó có thể làm mất đi sự công bằng và minh bạch trong quá trình quản trị doanh nghiệp, đặc biệt đối với việc phân phối cổ tức.

IV. BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH CHO CỔ ĐÔNG NHỎ TRONG VẤN ĐỀ CHIA CỔ TỨC NHƯ THẾ NÀO?

Bảo vệ quyền lợi và lợi ích của các CĐN trong tình huống đối diện áp lực từ các CĐL nhằm trì hoãn việc chia cổ tức là một nhiệm vụ quan trọng trong quá trình phát triển thị trường tài chính tổng thể và tại từng doanh nghiệp cụ thể. Mục tiêu là đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của CĐN không bị thiệt hại. Mặc dù CĐN thường gặp nhiều khó khăn trong việc thể hiện quan điểm và bảo vệ lợi ích của mình, nhưng với việc tăng cường vai trò của các Cơ quan giám sát trong CTCP bao gồm: Ủy ban kiểm toán, Thành viên độc lập HĐQT hoặc Ban kiểm soát (sau đây gọi tắt là “CQGS”) cùng việc tạo ra hành lang pháp lý để sử dụng công cụ tài phán từ các Cơ quan tài phán (sau đây gọi tắt là “CQTP” hoặc “Cơ quan”) đang trở thành những yếu tố then chốt trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các CĐN.

1. Tăng cường vai trò của các CQGS trong CTCP: Trao quyền tạm dừng giao dịch và yêu cầu bổ sung, làm rõ thông tin về giao dịch đáng ngờ

Trong việc giám sát các hoạt động của người điều hành doanh nghiệp hoặc HĐQT liên quan đến việc sử dụng khoản lợi nhuận ròng giữ lại (sau đây gọi tắt là “lợi nhuận”), mục tiêu chính là đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong việc điều phối nguồn lực này, trong đó có việc trả cổ tức cho các cổ đông công ty. Điều quan trọng là đảm bảo rằng sử dụng nguồn lợi nhuận này không bị lợi ích cá nhân hay xung đột lợi ích chi phối, mà tập trung vào lợi ích chung của công ty và tất cả cổ đông.

CQGS đảm nhận nhiệm vụ chắc chắn rằng việc sử dụng lợi nhuận được thực hiện một cách minh bạch. Điều này có thể bao gồm công khai thông tin về cách sử dụng lợi nhuận, báo cáo về những dự án hoặc mục đích cụ thể mà nguồn lợi nhuận sẽ được dùng. Mục đích của việc công khai là để tất cả các cổ đông và bên liên quan đều có cái nhìn rõ ràng về cách mà lợi nhuận của họ được sử dụng.

Đối với việc sử dụng nguồn lợi nhuận này để cho vay hoặc đầu tư, cần thiết phải có quy trình xem xét và phê duyệt chặt chẽ. CQGS có thể yêu cầu thông tin về mục đích cụ thể của việc cho vay hoặc đầu tư này, bao gồm cả việc kiểm tra tính phù hợp và rủi ro liên quan. Nếu có nghi ngờ về việc sử dụng nguồn cổ tức để trục lợi cá nhân, CQGS có quyền yêu cầu tạm dừng giao dịch; yêu cầu bổ sung, làm rõ thông tin nghi ngờ và tiến hành kiểm tra kỹ lưỡng để bảo đảm tính minh bạch và công bằng.

Tóm lại, vai trò của CQGS trong việc giám sát việc sử dụng lợi nhuận là đảm bảo rằng mọi quyết định liên quan đến việc điều phối nguồn lực này được thực hiện trong tinh thần minh bạch, công bằng và không bị chi phối bởi lợi ích cá nhân. Điều này đảm bảo lợi ích chung của công ty và cổ đông được đặt lên hàng đầu và đồng thời bảo vệ khỏi bất kỳ xung đột lợi ích không lành mạnh nào.

2. Thiết lập hành lang pháp lý cho các Cơ quan tài phán để phân định

Hiện nay, việc quyết định về chia cổ tức thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ mà ĐHĐCĐ phụ thuộc nhiều vào ý chí của các CĐL, gây khó khăn cho việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của CĐN. Trong trường hợp CĐL quyết định không chia cổ tức phù hợp với chiến lược và kế hoạch phát triển của công ty hoặc theo ngành luật riêng của ngân hàng mà đem lại lới ích lớn thì việc không chia cổ tức này là phù hợp với lợi ích chung của tất cả cổ đông. Còn nếu, lý do không chia cổ tức không thật sự phù hợp với chiến lược và kế hoạch phát triển của công ty, nhưng vẫn được thực hiện để trục lợi cá nhân thì điều này có thể tạo ra mất cân đối về quyền lợi và lợi ích của cổ đông, và có thể làm mất đi tính công bằng trong quá trình chia cổ tức.

Việc chia cổ tức không chỉ đơn thuần là việc chia lợi tức, như đã được phân tích ở phần đầu của bài viết. Thực tế, nó có thể được hiểu là chia tài sản chung theo phần của tất cả các cổ đông. Tuy nhiên, để bảo đảm tính minh bạch và tránh việc lợi ích cá nhân/lợi ích nhóm chi phối, cần thiết phải thiết lập một hành lang pháp lý cho các CQTP để có thể xem xét, phân định mọi quyết định liên quan đến chia cổ tức. Ví dụ sau ba hoặc năm năm mà các cổ đông không được chia cổ tức dù công ty có khoản lợi nhuận ròng giữ lại thì các cổ đông được khởi kiện ra các CQTP để xem xét vấn đề đó và các quyết định của các Cơ quan này phải được thực thi. Vai trò của CQTP lúc này sẽ như một cơ quan chủ trì việc chia cổ tức, không phụ thuộc vào ý chí của CĐL hoặc ĐHĐCĐ. Bằng việc đảm bảo rằng tất cả cổ đông và lợi ích chung của công ty được tôn trọng, CQTP sẽ góp phần quan trọng vào việc duy trì tính công bằng và minh bạch trong quá trình chia cổ tức, việc xây dựng một hành lang pháp lý thích hợp là điều cần thiết và đáng xem xét.

V. TẠM KẾT

Nhìn chung, vấn đề chia cổ tức trong CTCP cần được quan tâm và giải quyết một cách công bằng và minh bạch. Điều này giúp tạo niềm tin cho cổ đông và tăng cường sự ổn định và phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Một hệ thống pháp luật mạnh mẽ và cơ chế giám sát hiệu quả là cần thiết để bảo vệ quyền lợi của các cổ đông và đảm bảo hoạt động công ty được diễn ra một cách công bằng và bền vững. Đồng thời, việc bảo vệ cho CĐN cần được xem xét và thực hiện một cách nghiêm túc, nhằm tạo môi trường đầu tư bình đẳng và phát triển bền vững cho các doanh nghiệp.

Chuyên viên Nguyễn Khánh Toàn

Để lại bình luận